TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
Bản án số: 27/2017/HSPT Ngày: 27/3/2017 |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Trần Văn Luông.
- Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Huỳnh Đức; Ông Hoàng Huy Toàn.
- Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Ngân - Cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: Ông Trần Trí Thức - Kiểm sát viên.
Vào ngày 27 tháng 3 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên tòa phúc thẩm công khai xét xử vụ án hình sự thụ lý số 27/2017/HSPT ngày 16 tháng 02 năm 2017 đối với bị cáo Trần Văn L. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 06/01/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một. Họ và tên bị cáo có kháng cáo: Trần Văn L (tên gọi khác: C), sinh năm 1993, tại Campuchia; thường trú: Ấp B, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; tạm trú: Số xx, khu phố P, phường Đ, thị xã A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ sửa xe; trình độ văn hoá: 11/12; con ông Trần Văn M, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1965; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/6/2016 đến ngày 04/7/2016 được thay đổi biện pháp ngắn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Trong vụ án còn có 01 bị cáo, 01 người bị hại do không có kháng cáo và không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
- Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Huỳnh Đức; Ông Hoàng Huy Toàn.
- Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Ngân - Cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: Ông Trần Trí Thức - Kiểm sát viên.
Vào ngày 27 tháng 3 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên tòa phúc thẩm công khai xét xử vụ án hình sự thụ lý số 27/2017/HSPT ngày 16 tháng 02 năm 2017 đối với bị cáo Trần Văn L. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 06/01/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một. Họ và tên bị cáo có kháng cáo: Trần Văn L (tên gọi khác: C), sinh năm 1993, tại Campuchia; thường trú: Ấp B, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; tạm trú: Số xx, khu phố P, phường Đ, thị xã A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ sửa xe; trình độ văn hoá: 11/12; con ông Trần Văn M, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1965; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/6/2016 đến ngày 04/7/2016 được thay đổi biện pháp ngắn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Trong vụ án còn có 01 bị cáo, 01 người bị hại do không có kháng cáo và không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NHẬN THẤY:
Theo bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một thì nội dung vụ án như :
Khoảng 18 giờ 55 phút, ngày 24/6/2016 khi Lê Quang Thanh X đang ở phòng trọ số 05 tại khu phố L4, phường M, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì thấy xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ biển số 60B8 – 403.xx của ông Bùi Minh T, sinh năm 1985 (ông T ở phòng trọ số x) đang dựng trước cửa phòng trọ của ông T trên xe có cắm sẵn chìa khóa xe, không người coi giữ nên X nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô của ông T nên X đến đẩy xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx ra khỏi dãy trọ rồi chạy đến khu vực ngã 6 thuộc phường C, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Tại đây, X gọi điện thoại đến số của Trần Văn L nhờ L sửa xe mô tô thì L đồng ý nên X chạy xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx đến tiệm sửa xe của L tại phường T, thị xã A, tỉnh Bình Dương. Khi gặp L, X kêu L tháo phụ tùng xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx để lắp vào xe mô tô của X. Lúc này, L hỏi X lý do thì X nói dối với L đây là xe X mua lại của người trộm xe thì L đồng ý và kêu X để xe mô tô tại tiệm L sẽ tháo phụ tùng xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx theo yêu cầu của X. Còn ông Bùi Minh T sau khi phát hiện bị mất trộm xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx đã đến Công an phường Chánh Mỹ trình báo sự việc. Công an phường M mời Lê Quang Thanh X đến làm việc thì X khai nhận hành vi lấy trộm xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx của ông T và đã đưa xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx đến tiệm sửa xe của Trần Văn L để tháo phụ tùng nên Công an phường M mời L đến làm việc. Tại đây, L khai nhận hành vi chứa chấp xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx và giao nộp xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx trên cho Công an phường M. Cùng ngày 24/6/2016 Công an phường M, thành phố Thủ Dầu Một chuyển hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một để xử lý theo thẩm quyền.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 141 ngày 30/6/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một kết luận: Xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ biển số 60B8 – 403.xx (số máy 0195748, số khung 09073Y195596) trị giá 5.000.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 06/01/2017, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn L phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Áp dụng Khoản 1, Điều 250; các Điểm b, h, p, Khoản 1, Khoản 2, Điều 46; Điều 53 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Trần Văn L 06 (sáu) tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 25/6/2016 đến ngày 04/7/2016.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 13/01/2017, bị cáo Trần Văn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt (đơn kháng cáo trong thời hạn luật định) đến ngày 24/3/2017 bị cáo L có đơn thay đổi nội dung kháng cáo với nội dung được hưởng án treo.
Khoảng 18 giờ 55 phút, ngày 24/6/2016 khi Lê Quang Thanh X đang ở phòng trọ số 05 tại khu phố L4, phường M, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì thấy xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ biển số 60B8 – 403.xx của ông Bùi Minh T, sinh năm 1985 (ông T ở phòng trọ số x) đang dựng trước cửa phòng trọ của ông T trên xe có cắm sẵn chìa khóa xe, không người coi giữ nên X nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô của ông T nên X đến đẩy xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx ra khỏi dãy trọ rồi chạy đến khu vực ngã 6 thuộc phường C, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Tại đây, X gọi điện thoại đến số của Trần Văn L nhờ L sửa xe mô tô thì L đồng ý nên X chạy xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx đến tiệm sửa xe của L tại phường T, thị xã A, tỉnh Bình Dương. Khi gặp L, X kêu L tháo phụ tùng xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx để lắp vào xe mô tô của X. Lúc này, L hỏi X lý do thì X nói dối với L đây là xe X mua lại của người trộm xe thì L đồng ý và kêu X để xe mô tô tại tiệm L sẽ tháo phụ tùng xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx theo yêu cầu của X. Còn ông Bùi Minh T sau khi phát hiện bị mất trộm xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx đã đến Công an phường Chánh Mỹ trình báo sự việc. Công an phường M mời Lê Quang Thanh X đến làm việc thì X khai nhận hành vi lấy trộm xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx của ông T và đã đưa xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx đến tiệm sửa xe của Trần Văn L để tháo phụ tùng nên Công an phường M mời L đến làm việc. Tại đây, L khai nhận hành vi chứa chấp xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx và giao nộp xe mô tô biển số 60B8 – 403.xx trên cho Công an phường M. Cùng ngày 24/6/2016 Công an phường M, thành phố Thủ Dầu Một chuyển hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một để xử lý theo thẩm quyền.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 141 ngày 30/6/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một kết luận: Xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ biển số 60B8 – 403.xx (số máy 0195748, số khung 09073Y195596) trị giá 5.000.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 06/01/2017, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn L phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Áp dụng Khoản 1, Điều 250; các Điểm b, h, p, Khoản 1, Khoản 2, Điều 46; Điều 53 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Trần Văn L 06 (sáu) tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 25/6/2016 đến ngày 04/7/2016.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 13/01/2017, bị cáo Trần Văn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt (đơn kháng cáo trong thời hạn luật định) đến ngày 24/3/2017 bị cáo L có đơn thay đổi nội dung kháng cáo với nội dung được hưởng án treo.
Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm kết luận: Xác định tội danh, điều luật Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và áp dụng đối với bị cáo L là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo nhưng không cung cấp được tình tiết nào mới và mức hình phạt 06 tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” đối với bị cáo Trần Văn L mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn L, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đối với bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,
XÉT THẤY:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 06/01/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã nêu. Lời khai của bị cáo Trần Văn L thống nhất với lời khai của chính bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm cùng các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 55 phút, ngày 24/6/2016, Lê Quang Thanh X đã có hành vi lén lút lấy trộm xe mô tô hiệu Wave màu đỏ, biển số 60B8-403.xx trị giá 5.000.000 đồng của ông Bùi Minh T, Trần Văn L mặc dù biết xe môtô trên là tài sản do phạm tội mà có nhưng vẫn đồng ý chứa chấp để giúp X thay thế phụ tùng. Hành vi của bị cáo L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo L về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Khoản 1, Điều 250 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo L là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm trật tự quản lý Nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà có, gây ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, xâm phạm trật tự công cộng tại địa phương. Về nhận thức, bị cáo biết được hành vi chứa chấp tài sản do người khác lén lút chiếm đoạt mà có là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả. Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo và cung cấp thêm tình tiết gia đình khó khăn; bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình; bị cáo có việc làm và có nơi cư trú ổn định. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là phù hợp với hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là quá nghiêm khắc. Hội đồng xét xử xét thấy không cách ly bị cáo cũng không gây nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có nhân thân tốt, phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có địa chỉ cư trú rõ ràng nên đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 60 Bộ luật Hình sự, việc cho bị cáo miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cũng đủ sức răn đe đối với bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo tự cải tạo. Do đó, giữ nguyên mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử đối với bị cáo L là 06 tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Ngoài ra, bị cáo Lê Quang Thanh X thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” , bị cáo Trần Văn L thực hiện hành vi “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”, các bị cáo thực hiện 02 tội phạm riêng biệt nên việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 53 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo X, L là chưa phù hợp và cần rút kinh nghiệm. Kháng cáo của bị cáo là có cơ sở nên được chấp nhận. Đề nghị của Viện Kiểm sát về giữ nguyên bản án sơ thẩm là chưa phù hợp nên không được chấp nhận.
Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo L không phải nộp.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ Điểm b, Khoản 2, Điều 248; Điểm đ, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự,
Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo L không phải nộp.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ Điểm b, Khoản 2, Điều 248; Điểm đ, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn L, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 06/01/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Áp dụng Khoản 1, Điều 250; các Điểm b, h, p, Khoản 1, Khoản 2, Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Trần Văn L 06 (sáu) tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (27/3/2017).
Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã A, tỉnh Bình Dương giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1, Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
2. Án phí hình sự phúc thẩm :
Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo L không phải nộp.
3. Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. Bản án: số 27/2017/HSPT ngày 06/07/2017 của TAND tỉnh Bình DươngBản án số 272017HSPT ngày 06072017 của TAND tỉnh Bình Dương.
Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã A, tỉnh Bình Dương giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1, Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
2. Án phí hình sự phúc thẩm :
Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo L không phải nộp.
3. Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. Bản án: số 27/2017/HSPT ngày 06/07/2017 của TAND tỉnh Bình DươngBản án số 272017HSPT ngày 06072017 của TAND tỉnh Bình Dương.
Nơi nhận: | TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA |
- VKSND tỉnh BD; - Phòng PV 27 CA tỉnh BD; - TAND tp Thủ Dầu Một; - VKSND tp Thủ Dầu Một; - C.cục THADS tp Thủ Dầu Một; -CQCSĐT CA tp Thủ Dầu Một; -Bị cáo; -UBND phường Đ; -Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương; -Lưu HS; Tổ HCTP. |
Trần Văn Luông |
Tên bản án |
Bản án: số 27/2017/HSPT ngày 06/07/2017 của TAND tỉnh Bình Dương |
||
Số hiệu | Ngày xét xử | ||
Bình luận án | |||